Báo cáo khoa học: Bóc trọn khối bằng Bipolar trong điều trị Ung thư bàng quang tại tài xỉu
Tác giá: Nguyễn Ngọc Châu, Trịnh Nguyên Bách, Hồ Xuân Tuấn, Văn Thành Trung
Phẫu thuật cắt bướu bàng quang qua ngả niệu đạo (TURBT) vẫn là tiêu chuẩn vàng cho điều trị bướu bàng quang chưa xâm lấn cơ hiện nay. TURBT là công cụ để chẩn đoán, phân giai đoạn, và cũng để điều trị. Tuy nhiên, đặc thù của bướu bàng quang là tái phát nhiều, cùng với việc cắt hết bướu trong một số trường hợp còn khó khăn. Ngoài ra việc cắt đốt bướu thành từng mẫu nhỏ không đảm bảo được nguyên tắc điều trị ung thư cổ điển là lấy trọn bướu, cách ly mô bướu và mô lành, làm tăng nguy cơ gieo rắc tế bào bướu. Điều này đặt ra vấn đề cần phải tối ưu hóa TURBT, để có tiên lượng tốt về mặt ung thư.
Thêm nữa, vai trò của nhà giải phẫu bệnh trong ung thư bàng quang rất quan trọng, không những phải nhận diện sự bất thường của tế bào niệu mạc, mà còn phải đi sâu vào đánh giá mức độ xâm lấn. Trong khi những mẫu bệnh phẩm gửi cho bác sĩ giải phẫu bệnh là những mô cắt rời rạc và bị đốt cháy nhiều, mức độ chính xác để đánh giá giai đoạn là khó đạt được.
Điều này thúc đẩy sự ra đời của một kỹ thuật mới trong cắt bướu bàng quang, là cắt trọn bướu (en bloc resection), với sự hỗ trợ của dao cắt lưỡng cực hoặc laser. Những khối bướu được cắt trọn, lấy rộng mô xung quanh, lấy sâu qua lớp cơ bàng quang, đưa ra ngoài thành một khối, để đảm bảo không sót mô bướu và quan sát các lớp qua vi thể được chính xác nhất.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu về kỹ thuật cắt trọn bướu bàng quang qua ngả niệu đạo trong khoảng thời gian từ 02/2019 tại tài xỉu
.
Trong quá trình phẫu thuật, bệnh nhân được nằm tư thế tán sỏi, sử dụng nước muối sinh lý làm dung dịch tưới rửa. En bloc TURBT được thực hiện bằng máy Olympus 26fr, sử dụng điện lưỡng cực, năng lượng cắt được chỉnh ở 40-100 W và đốt ở 100W, dao cắt được sử dụng gồm kim (plasmaneedle), vòng cắt (plasmaloop), ovan (plasma ovalbutton), con lăn (plasmaroller).
Đầu tiên, soi toàn bộ bàng quang đánh giá bướu và tương quan của bướu với niệu quản, soi lại thêm một lần nữa bằng ánh sáng NBI, xác định biên sẽ cắt, dùng kim cắt đánh dấu biên phẫu thuật. Cắt bằng kim sâu tới lớp cơ theo chu vi bướu, bóc tách và đưa nguyên khối bướu ra ngoài. Đánh giá lại đáy bướu và biên phẫu thuật, có thể lấy thêm làm giải phẫu bệnh, đốt cầm máu. Đặt thông niệu đạo lưu.
Có tổng số 116 trường hợp bướu bàng quang được chúng tôi làm en bloc TURBT. Kích thước bướu trung bình là 2,12cm, lớn nhất là 5cm và nhỏ nhất là 0,5cm. Vị trí bướu thường gặp nhất là vách bàng quang, đây cũng là vùng có phản xạ thần kinh bịt nhiều nhất, và có 36% bệnh nhân có phản xạ thần kinh bịt trong mổ. Thời gian mổ trung bình là 39,48 phút. Lượng máu mất không đáng kể. Không có trường hợp chảy máu cần truyền máu hay lủng bàng quang trong mổ.
Theo dõi hậu phẫu: rút thông niệu đạo sau khoảng 3,22 ngày và xuất viện sau khoảng 2,97 ngày.
Trong 116 trường hợp mổ, ghi nhận có 9 trường hợp viêm mạn tính, 1 trường hợp bướu mạch máu, 22 trường hợp u nhú tiềm năng ác tính thấp, 1 trường hợp bướu cơ trơn, 1 trường hợp lạc nội mạc tử cung, 3 trường hợp u nhú đảo ngược và 79 trường hợp Carcinoma tế bào chuyển tiếp.
Trong 79 trường hợp TCC này, có 5 trường hợp không có cơ trên mẫu sinh thiết, 21 trường hợp bướu xâm lấn cơ và 53 trường hợp chưa xâm lấn cơ.
Các ưu điểm của kỹ thuật trọn bướu bàng quang qua ngả niệu đạo
- Kỹ thuật cắt trọn bướu bàng quang qua ngả niệu đạo cho thấy tính an toàn, không có trường hợp biến chứng nặng trong mổ như chảy máu phải truyền máu hay thủng bàng quang. Trường hợp mất máu nhiều nhất là 200ml là ở bướu lớn khoảng 5x5cm và thời gian mổ của trường hợp này cũng khá lâu là 100 phút.
- Yêu cầu bắt buộc trong cắt đốt nội soi chẩn đoán và điều trị bướu bàng quang là phải có lớp cơ trong mẫu bệnh phẩm, bảo đảm việc đánh giá đầy đủ, chính xác giai đoạn, quyết định kế hoạch điều trị cho bệnh nhân. En bloc TURBT đã cắt trọn được bướu qua đánh giá trong mổ. Tỉ lệ lấy được lớp cơ là khá cao (94%), cung cấp mẫu bệnh phẩm hoàn hảo, đảm bảo cho bác sĩ giải phẫu bệnh đánh giá chính xác có xâm lấn cơ hay không, cũng như giúp bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định phù hợp trong giai đoạn tiếp theo cho từng bệnh nhân, qua đó nâng cao chất lượng điều trị. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong điều trị ung thư bàng quang.
Một số nghiên cứu chỉ ra việc không có lớp cơ trong mẫu cắt đốt sẽ làm gia tăng tỉ lệ tái phát, việc theo dõi tái phát dài hạn ở 53 bệnh nhân không xâm lấn cơ sẽ củng cố thêm cho các nghiên cứu này.
Một thực tế trong điều trị bướu bàng quang là việc đánh giá giai đoạn TNM, khi đánh giá T dựa vào giải phẫu bệnh, chúng ta mới chỉ dừng lại ở xâm lấn cơ hay không xâm lấn cơ, trong khi chỉ định cắt đốt nội soi bướu bàng quang lần 2 (second look) lại cần mức độ cao hơn như: CIS, Ta, T1, mức độ biệt hóa tế bào. Do đó, việc bảo đảm các lớp được giữ nguyên thành một khối trong kỹ thuật en bloc TURBT sẽ góp phần hỗ trợ cho các nhà giải phẫu bệnh trong việc xác định chính xác các lớp của bàng quang và cũng là giúp chính các bác sĩ lâm sàng trong điều trị bệnh nhân bướu bàng quang.
- Phản xạ thần kinh bịt luôn là trở ngại cho các bác sĩ lâm sàng khi làm TURBT đơn thuần, đôi khi phải kết thúc sớm phẫu thuật và làm lại lần 2 sau này, việc dùng kim cắt (plasmaneedle) để thao tác ở vị trí vách bàng quang cho thấy sự thuận lợi, và trong trường hợp phản xạ xảy ra, thương tổn gây nên cho bàng quang được hạn chế ở mức thấp nhất. Trong 36 trường hợp có phản xạ thần kinh bịt, không có trường hợp nào thủng bàng quang hay biến chứng cần can thiệp mổ mở.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi bước đầu nhận thấy en bloc TURBT an toàn và hiệu quả trong điều trị bướu bàng quang chưa xâm lấn cơ, cũng như mang lại sự chính xác trong phân giai đoạn bướu bàng quang xâm lấn cơ.